Hiện
nay sông, hồ trên địa bàn Hà Nội tiếp nhận mỗi ngày hàng triệu m3 nước
thải công nghiệp, nước thải đô thị và nước thải từ đồng ruộng, các khu
vực nuôi trồng thủy sản. Lượng nước thải sinh hoạt trên địa bàn thành
phố dự báo sẽ lên đến 440.934 m3/ngày đêm vào năm 2020. Như vậy trong
tương lai gần, nguy cơ ô nhiễm nguồn nước sông, hồ ở Hà Nội không những
không giảm mà còn gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là ô nhiễm do chất thải
công nghiệp, sinh hoạt. Đây là cảnh báo khẩn cấp cho công tác bảo vệ và
phục hồi chất lượng nước của Hà Nội, phục vụ cấp nước an toàn cho sinh
hoạt, thủy sản, du lịch và nông nghiệp.
Từ
những năm 2008-2009, bằng phương pháp đo đạc, phân tích liên tục chất
lượng nước theo chiều dài các dòng sông, kết hợp số liệu phân tích vào 2
mùa tại 50 điểm, nhóm các nhà khoa học Viện Khoa học Môi trường và Phát
triển tiến hành Đề tài “Nghiên cứu phân vùng chất lượng nước các sông,
hồ trên địa bàn thành phố Hà Nội, đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý
và bảo vệ”, qua đó đã xác định rõ ràng sự phân bố các vùng nước bị axit
hóa, bị ô nhiễm do các chất hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ và vi sinh.
Các
bản đồ (số hóa) về diễn biến các thành phần ô nhiễm này được xây dựng.
Đường cong biến đổi oxy hòa tan (DO, đặc trưng cho ô nhiễm hữu cơ) và
các chất ô nhiễm khác dọc sông Hồng, sông Đuống, sông Nhuệ, sông Cầu và
sông Cà Lồ, hồ Tây, đã được xác lập. Đây là các tài liệu có giá trị cao
phục vụ cho việc đánh giá diễn biến chất lượng nước hiện nay và trong
tương lai của Hà Nội, phục vụ quản lý môi trường, cảnh báo ô nhiễm và
cung cấp thông tin cho việc sử dụng nước.
Theo
đó, nguyên nhân gây ô nhiễm các sông, hồ ở Hà Nội là do phần lớn nước
mưa, nước thải sinh họat và sản xuất đều được đưa vào các sông trong
thành phố. Sau đó, lượng nước thải này đổ tập trung vào sông Tô Lịch rồi
chảy vào sông Nhuệ qua đập Thanh Liệt. Việc lượng nước thải tập trung
chảy vào sông Nhuệ đã làm nước sông ở đây bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Tuy
vậy, chất lượng nước sông Hồng từ điểm hợp lưu với sông Đà ở Phong
Vân-Ba Vì đến Đông Ngạc-Từ Liêm và từ Hồng Vân-Thường Tín đến ranh giới
tỉnh Hà Nam vẫn đạt loại II theo WQI - chỉ ô nhiễm nhẹ nên đạt yêu cầu
cấp nước cho các nhà máy nước phục vụ sinh hoạt. Còn chất lượng nước
sông Đà vào một số thời điểm trong năm có dấu hiệu ô nhiễm do chất thải
rắn lơ lửng, dầu mỡ và vi sinh. Đặc biệt các sông: Nhuệ, Tích, Bùi, Tô
Lịch, Kim Ngưu... đều bị ô nhiễm nặng đến rất nặng. Ô nhiễm do các chất
có độc tính cao được phát hiện ở nhiều sông thuộc tỉnh Hà Tây (cũ) và
các sông nội thành Hà Nội.
Hiện
Hà Nội có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 244 làng có nghề
truyền thống. Kết quả khảo sát sơ bộ cho thấy, mức độ ô nhiễm do nước
thải và rác thải các làng nghề trên địa bàn Hà Nội tăng qua từng năm.
Hầu hết các làng nghề đã ô nhiễm ở mức báo động, ảnh hưởng đến đời sống
của nhân dân, như các bệnh tiêu hóa và mắt chiếm 37%, bệnh hô hấp 20%,
bệnh ngoài da 31% và các bệnh khác như tai - mũi - họng, thần kinh…
Từ
việc xác định rõ mức độ ô nhiễm, khoanh vùng ô nhiễm từng sông và từng
đoạn sông, nhằm quy hoạch cho phép sử dụng nước an toàn vào mục đích cấp
nước sinh hoạt, thủy sản, thủy lợi và du lịch. Đồng thời, đây cũng là
cơ sở khoa học và thực tiễn để đề xuất các biện pháp kiểm soát ô nhiễm
trên các sông, trong quá trình Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.